Tin tức

Bác Hồ có bao nhiêu tên? Thông tin thú vị ít ai biết về tên của Bác

Bác Hồ có bao nhiêu tên? Thông tin thú vị ít ai biết về tên của Bác

Bác Hồ có bao nhiêu tên là câu hỏi mà rất nhiều người quan tâm. Qua bao nhiêu năm bôn ba khắp mọi nơi trên thế giới với những cái tên khác nhau để có thể hoạt động tránh né sự truy lùng của địch, chính vì vậy mà số lượng tên gọi, bí danh hay mật danh của Bác Hồ luôn  gợi sự tò mò cho rất nhiều người. Hãy cùng đón xem bài viết dưới đây để biết được câu trả lời nhé!

I. Bác Hồ có bao nhiêu tên?

Không chỉ là người biết nhiều thứ tiếng mà Bác Hồ của chúng ta luôn để lại thắc mắc cho rất nhiều người rằng Bác Hồ có bao nhiêu tên gọi, bút danh, mật danh? Cũng bởi vì qua nhiều thăng trầm biến cố của cuộc cách mạng dành lại độc lập và chủ quyền cho toàn dân tộc thì Bác đã phải thay đổi rất nhiều cái tên để có thể hoạt động mà không bị sự phát giác của địch.
Nói về số lượng tên của Bác thì thực chất con số này còn mơ hồ và không ai khẳng định được số lượng đúng là bao nhiêu, có người cho rằng Bác có 152 cái tên nhưng cũng có nhiều tài liệu lại chỉ ra Bác có tới hơn 170 cái tên. Cũng rất nhiều người thắc mắc rằng đâu mới là tên thật của Bác, theo tìm hiểu tư liệu mà Đảng cung cấp thì tên thật của Bác Hồ là Nguyễn Sinh Cung.

Trải qua nhiều năm tháng hoạt động, Bác Hồ có rất nhiều tên, bí danh, mật danh
Trải qua nhiều năm tháng hoạt động, Bác Hồ có rất nhiều tên, bí danh, mật danh

II. Danh sách tên của Bác Hồ và ý nghĩa của những cái tên

Qua mỗi giai đoạn Bác lại có một lần thay tên và để lại bút danh, mật danh khác nhau, mỗi tên gọi của Bác đều mang ý nghĩa đặc biệt của riêng nó. Bạn có thể theo dõi bảng dưới đây để biết thêm nhiều thông tin chi tiết.

Tên gọi, mật danh, bút danh Ý nghĩa
Nguyễn Sinh Cung 1980, đây là tên  khai sinh của Bác
Nguyễn Sinh Côn 1954, tên hồi còn nhỏ và được Bác ghi trong một bài viết.
Nguyễn Tất Thành 1901, tên gọi được đặt bởi cha của Bác Hồ trong lễ chào làng khi chuyển về sống ở làng Kim Liên
Nguyễn Văn Thành Đang cập nhật
Nguyễn Bé Con 1920, ghi trong tài liệu mật thám Pháp theo dõi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, bản ghi số 1116, 1931
Văn Ba 1911, tên gọi của Bác trên chuyến tàu sang Pháp đi cứu nước.
Paul Tat Thanh 1912, Nguyễn Tất Thành từ New York gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ là Nguyễn Sinh Huy. Lá thư ký tên Paul Tất Thành.
Tất Thành, C.Đ Tất Thành
1914, tên trong lá thư Bác ký gửi Phan Chu Trinh. Hiện có bốn lá thư được sưu tầm ký tên Tất Thành. Một thư ký Cuồng Điệt Tất Thành, ba thư ký C.Đ Tất Thành.
Paul Thanh 1915, tên trong bức thư viết cho toàn quyền Đông Dương qua lãnh sự Anh tại Saigon nhờ tìm địa chỉ cha mình.
Nguyễn Ái Quốc 1919, tên gọi khi gia nhập chung nhóm cứu quốc của ông Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trưởng,…
Phéc-đi-năng  Đang cập nhật
Albert de Pouvourville  1920, trong tờ báo  Điện Tín Thuộc Địa có truyền đơn trích đoạn từ nhiều tờ báo có liên quan tới vấn đề Đông Dương.
Nguyễn A.Q.  1921 – 1926, trong hai bài báo ký tên Nguyễn A.Q. có tựa “Hãy Yêu Mến Nước Pháp, Người Bảo Hộ Các Anh.” đăng trên báo Người Tự Do.
Culixe  1922, trong một bài viết trên L’Humanité ngày 18 tháng 3 năm 1922.
N.A.Q.  1922, bút danh này trên báo Le Paria và L’Humanité từ 1922-1930.
Ng.A.Q.  1922, bút danh trên báo Le Paria từ 1922-1925.
 Henri Tran 1922. Henri Tchen là tên ghi trong thẻ đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Số thẻ: 13861.
N.  1923, trong các năm 1923-1928 trên Le Paria.
Chen Vang 1923, Nguyễn được cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Sô Viết Liên Bang tại Berlin cấp cho giấy đi đường số 1829. Trong giấy này Nguyễn Ái Quốc mang tên Chen Vang.
Nguyễn 1923. Bút danh này trong các năm 1923, 1924, 1928 trên Le Paria.
Chú Nguyễn 1923. Thư này Nguyễn Ái Quốc gửi đến các bạn cùng hoạt động tại Pháp trước khi rời Paris đi Liên Sô.
Lin 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng tên Lin trong thời gian ở Liên Sô từ 1923-1924 và 1934-1939.
Ái Quốc 1924. Ái Quốc là tên ghi trong thẻ dự đại hội V Quốc Tế Cộng Sản, tháng 6 năm 1924.
Un Annamite 1924. Bút danh Annamite được ký dưới một bài viết trên Le Paria.
Loo Shing Yan 1924. Bài “Thư Từ Trung Quốc, số 1”, ngày 12 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết về phong trào cách mạng Trung Quốc, sự thức tỉnh, giác ngộ cách mạng cho phụ nữ Trung Quốc, gửi tạp chí Rabotnhitxa.
Ông Lu 1924. Ngày 12 tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi cho một đồng chí trong Quốc Tế Cộng Sản báo tin ông Lu đã đến Quảng Châu, Trung Quốc.
Lý Thụy 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh Lý Thụy trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc.
Lý An Nam  1924-1925. Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Quảng Châu với bí danh Lý Thụy
Vương 1925. Là giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Vương.
L.T. 1925. Nguyễn Ái Quốc ký tên L.T. gửi thư cho ông H (Thượng Huyền)
Howang T.S. 1925. Ngày 2 tháng 5 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc lấy bút hiệu Howang viết về đại hội công nhân và nông dân.
Z.A.C. 1925. Bút hiệu này được đăng trên báo Thanh Niên.
Lý Mỗ 1925. Bút danh trên Báo Công Nhân Chi Lộ Đặc Hiệu
Trương Nhược Trừng  Đang cập nhật
Vương Sơn Nhi 1925. Viết trên báo Thanh Niên với bút danh Vương Sơn Nhi, Trương Nhược Trừng.
Vương Đạt Nhân 1926. Với bút danh này, Nguyễn Ái Quốc được Đoàn Chủ Tịch Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Quốc Dân Đảng Trung Quốc mời đến dự và phát biểu ý kiến
Mộng Liên 1926. Mộng Liên được ký dưới bài viết “Mục Dành Cho Phụ Nữ” đăng trên báo Thanh Niên
 Tống Thiệu Tổ 1926. Theo hồi ký của một số người hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc, Tống Thiệu Tổ là bí danh của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc.
Wang 1927. Bài viết dưới bút danh Wang được đăng trên Thư Tín Quốc Tế (Inprekorr).
Liwang 1927. Ngày 16 tháng 12 năm 1927, từ Berlin Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân, đề nghị giúp đỡ tiền để về nước
Ông Lai 1927. Cũng trong thư gửi Đoàn Chủ Tịch Quốc Tế Nông Dân
Thọ  1928
Nam Sơn 1928. Tại Thaí Lan khi họp với người Việt cư  ngụ tại Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn.
 Chín (Thầu Chín) 1928. Đầu tháng 8 năm 1928, Nguyễn Ái Quốc tới Udon, Thái Lan, ông lấy tên là Chín. Mọi người gọi là Thầu Chín hay ông già Chín.
Tiết Nguyệt Lâm  1930. Cũng trong thư Nguyễn Ái Quốc xin giấy chứng nhận là phóng viên báo Thế Giới, ông ghi địa chỉ để nhận là: Mr. Sit-yet-um, Wah-jon C, 136 wanchai R, HongKong.
Công Nhân 1930. Bút danh này trong bài viết “Tranh Thủ Quần Chúng Như Thế Nào?” đăng trên báo Vô Sản, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, số 1, ra ngày 31 tháng 8 năm 1930.
Victo 1930. Bí danh Victo trong bức thư đề ngày 29 tháng 9 năm 1930 gửi Ban Chấp Hành Quốc Tế Cộng Sản
Đông Dương 1931. Bút hiệu này được đăng trên bài viết “Kỷ Niệm  Một Năm Khởi Nghĩa Yên Bái” đăng trên Tạp Chí Thư Tín Quốc Tế, 1931, số 12.
Lão Trịnh 1931. Trong báo cáo của cơ quan an ninh Pháp về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
Năm  1931
Lý Phát  1931
 Viên  1931
Tống Văn Sơ 1931. Tống Văn Sơ là tên ghi trong thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc khi ông ta bị bắt ở số 186, phố Tam Lung, Hongkong
Hồ Quang 1938. Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng
Hồ Chí Minh 1942. Để đánh lạc hướng khi hoạt động tại Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh.
Cụ Hoàng 1945. Cuối tháng 2 năm 1945, Hồ Chí Minh đi Côn Minh với ý định gặp các cơ quan của Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của đồng minh chống phát xít đối với nhóm của Hồ Chí Minh.
 C.M.Hồ 1945. Hồ Chí Minh ký tên C.M. Hồ dưới thư gửi ông Fenn
Ông Ké 1945. Chiều cuối tháng 4 năm 1945, Hồ Chí Minh trong bộ áo chàm người Nùng đến chiếc lán ở Pác Tẻng (chân núi Lam Sơn, Cao Bằng) của gia đình đồng chí Hoàng Đức Triều (An Định). Hồ Chí Minh được giới thiệu là “đồng chí Ông Ké.
Hồ Chủ Tịch 1945. Tên này có sau khi tuyên bố có “Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”.
Bác Hồ 1946. Nhiều thư ký tên “Bác Hồ” gửi cho các thanh thiếu niên, học sinh.”Bác Hồ” cũng được quần chúng sử dụng rộng rãi, trong sách báo, học đường.
Trần Thắng Lợi 1949. Hồ Chí Minh dùng bút danh Trần Thắng Lợi viết bài “Đảng Ta” đăng trên tạp chí Sinh Hoạt Nội Bộ số 13, tháng 1 năm 1949.

Trên đây chỉ là một trong số những cái tên đặc trưng của Bác Hồ, có thể nói rằng Bác là người có nhiều tên và bút danh nhất nước ta. Công ơn của Bác đối với đất nước đến ngày nay vẫn được người dân “đời đời biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh”.